lunes, 10 de agosto de 2015

TRINH ĐƯỜNG [16.752] Poeta de Vietnam


TRINH ĐƯỜNG  

(1919 - 2001)
El verdadero nombre del poeta era Trinh Truong Dinh Street, nació en 1919 en Dai Loc, provincia de Quang Nam. Desde 1947-1954 trabajó como presidente Análisis Congreso Cultural División de Quang Nam - Da Nang. En 1954, se instaló en el Norte, como editor y poeta de Van Nghe Newspaper Editors poesía Literatura Publishing House.

Como poeta tiene miles de páginas de poesía y libros literarios.   

Falleció el 28-9-2001, a la edad de 85 años de edad. 






Vuelvo a ver mi viejo hogar

Oh mi aldea natal,
Mi antigua casa aún allí
Cuando la lengua de mi madre mecía la cuna,
El umbral donde aprendí a caminar,
El río donde nadé
A través de muchos días por deslizarme.
A medio camino hacia la colina, las tumbas de mis ancestros,
Altas y bajas.
¿A través de tiempos difíciles,
Quién se encargó de mi jardín?
De mi casa, un montón de piedras,
De las bombas esperando explotar bajo el piso?
¿Quién sabe cuántos explosivos permanecen?
Entradas de trinchera dividen la tierra para hacer túneles
Donde ratones se disputan su patrimonio
En la antigua casa llena de gente
Ahora un terreno de bosque salvaje,
Ante mi casa,
Me vuelvo más que un extraño.

Vuelvo a las filas por treinta años,
Mi cabello joven ahora plateado.
Pasé mi vida entera luchando por la tierra,
Sólo para convertirme en un hombre sin hogar


Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena








Chốt trên mây
 
Trên đây bầu trời nghiêng về Tây
Trên đây quanh năm mây trắng bay
Mới lên rợn ngợp khi nhìn xuống
Tôi say trời cao, tôi say mây.
 
Ba nghìn thước cao so biển bằng
Tưởng sờ được đỉnh Phan-xi-păng
Chiến sĩ lâng lâng trong khí loãng
Đứng ngang mặt trời ngang mặt trăng.
 
Không gian là xứ nữ thần mây
Thời gian lâu mau theo mây bay
Ánh ngày như gương mờ trước thuỷ
Bản đồ sương sa lau luôn tay.
 
Trên đây cây cằn rêu phủ đầy
Căm căm gió thổi rụng bàn tay
Chân mày sương đọng trấn thủ ấm
Mưa đã chợt về hoa tuyết bay.
 
Ở đây chuyện kể như truyền thuyết
Mười người đi lấy củ hoàng liên
Một người sẩy tay rồi biệt tích
Âm u xương tàn vực không tên.
 
Vẫn có trên đây tiếng lửa cười
Có gà gáy rạng ánh sao Mai
Nước nấu mau sôi, cơm chín dở
Chiến hào vẫn đào ngang lưng trời
 
Bồi hồi đọc lại trang sử xưa
Trên đá hồng hoang mây cổ sơ
Thương dáng cha ông đi mở cõi
Nhận từ Công Nguyên mặt kẻ thù.
 
Ở nơi chỉ có mây đi chơi
Ở nơi không có dấu chân người
Vẫn còn dấu ấn đoàn đo đạc
Nét chữ son in như máu tươi.
 
Rắn mổ chết người là hổ mang
Vượt biên luồn rừng là quân gian
Kẻ thù mới: sư đoàn dê núi
Quân ta tinh ánh mắt đại bàng.
 
Nọ Hoàng Liên Sơn, này Tả Phình
Kia hệ sông Đà hình lông chim
Quặng núi như sao lên cực Bắc
Mùa màng theo vàng về Điện Biên.
 
Các anh ở trời mà giữ đất
Giấu mình trong mây, trong mù sa
Biên giới Tây Nam đất đang cháy
Biên giới phía này ngầm phong ba.
 
Đây trời, đây đất, đây sông núi,
Tổ quốc giao cho vị trí này
Các anh: mũi kiếm đầu biên giới
Tôi muốn làm mây ở lại đây.

1978
 
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005   

 








.

No hay comentarios:

Publicar un comentario