lunes, 10 de agosto de 2015

HUY CAN [16.751] Poeta de Vietnam


Huy Cận

(31 de mayo 1919 ​​- 19 de febrero 2005), su nombre de nacimiento es Cu Huy; fue uno de los poetas más destacados del nuevo movimiento poesía. Era amigo cercano de Xuan Dieu, un famoso poeta de Vietnam.

Agosto de 1945, Cu Huy es uno de los tres miembros del Gobierno Provisional (Nguyen Luong, Tran Huy Lieu y Cu Huy).

Después de la Revolución de Agosto, tenía 26 años cuando fue Ministro de la Secretaría de Agricultura en el gobierno de coalición interino de la República Democrática de Vietnam con Ho Chi Minh como jefe de gobierno. 

Más tarde se desempeñó como Viceministro de la Secretaría de Cultura, entonces ministro de Estado de Información y Cultura en el marco del Consejo de Ministros en el gobierno de la República Democrática de Vietnam y la República de Vietnam socialista, a cargo de  los bienes culturales.

A partir de 1984, fue presidente del Comité Central de la Unión de Vietnam Literatura y Arte. Además, fue miembro de la Asamblea Nacional de Vietnam.

Huy murió el 19 de febrero de 2005 en Hanoi.




Cartas sobre las murallas de Hai Phong

En la pared unas cuantas líneas garabateadas.
Un mensaje rápido, una esposa diciéndole a su marido
“Hoy me fui a estar con nuestro hijo;
Fuera de la ciudad, mi madre está esperando seguramente”.

En otra esquina, líneas escritas con carbón:
“Me uní al Ataque Directo; Volveré tarde a comer.
Asegúrate de darle las llaves al vecino.
Si cortan la electricidad, compra aceite. La estufa está debajo de la
mesa”.

Las mentiras demandan instrucciones para cada acto:
“Al salir, recuerda apagar el fusible.
Volveré por la tarde; come sin mí.
Mueve la maquinaria que la empresa quiere movida”.

Luego, con urgencia: “El niño se quebró la pierna.
Me voy para el Viet-Checo. El niño no ha comido.
Volveré con cincuenta centavos de pho.
La habitación se derrumbó. Encuentra la bicicleta al final de la
historia”.

Y de nuevo una pareja.
“Espera en la fábrica, la comida está servida.”
Y las apasionadas palabras: “Vendré mañana
A ver a mi madre y a ti....” quedaron sin terminar.

Sin terminar porque el muro colapsó.
La calle junto al río siempre ha sido pacífica
Hasta que aviones estadounidenses vinieron sin razón alguna
A bombardearla una mañana.
Por el río, una fila de casas derrumbadas;
Dos paredes quedaron solas estirándose.
Sobre el montón de ladrillos rotos, hay palabras visibles todavía
Que pertenecen a alguien, escritas para alguien más.
Cartas escritas velozmente en la pared,
Miles de mensajes, mil signos de amor,
Noticias de carne y sangre de cientos de vidas
Deslumbran mi corazón en el polvo del camino.
Queridas hermanas, queridos hermanos, queridos hijos,
¿A cuál aldea evacuaron?
Toda la sangre hirviendo llena el cielo del puerto,
Se extiende para ayudar a construir nuestra vida nueva.
Cuán crueles los invasores estadounidenses.
Sus bombas pulverizan nuestras calles, derrumban nuestras
paredes,
Pero todos aquellos que escribieron estas cartas en la pared
Los empujarán al mar.

Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena






Anh đầu thai vào đời em mỗi sáng

Anh đầu thai vào đời anh mỗi sáng 
Đời tinh khôi theo hướng mắt em nhìn 
Anh đi trên bờ của biển em sâu thẳm 
Và anh trở về sâu thẳm của hồn anh, 
Theo làn sóng em; vận mệnh đôi ta 
Là hai đợt sóng giao hoà 
Trên biển lớn. 
Liệu hai ta có đổ xuống lúc cập bờ? 
Anh dựa vào bờ em chiều lặn 
Anh tự nhận mình trong gương em xán lạn 
Để yêu em tận cội, tận nguồn 
Để óc toàn em: hoa hồng và gai nhọn. 
Anh đầu thai vào đời em mỗi sáng 
Em là bình minh, em là rạng đông 
Là chân trời lùi xa mãi mãi 
Và chiếc đồng hồ cố định đời anh 
Đánh những giờ số mệnh. 
Em là hương vị của ngày, hương vị của đêm
Hương vị nhựa nồng và trái ngọt 
Mà anh hít thở để làm êm đói khát 
Của hồn anh nung chảy khát thèm.







Anh mang thầm em

Anh mang thầm em trong hồn anh 
Như đứa trẻ thơ mãi để dành 
Chiếc bánh mẹ cho từ sáng sớm 
Anh chờ hạnh phúc những giờ xanh. 

Anh mang thầm em đi trăm nơi 
Nhớ em, anh tự mỉm môi cười 
Là anh, hay chính là em đó ? 
Anh sống thầm em ở giữa đời







Anh thợ gốm

Nắng lên hồng ban mai 
Anh thờ gốm ngồi xoay 
Đất mịn nhào với nắng 
Hình đẹp nở trong tay. 

Gió xuân man mác thổi 
Cỏ non rờn ngoài đê 
Mùa xuân đang tạo lại 
Cây lá trên đồng quê. 

Anh ngồi xoay ung dung 
ánh sáng rọi theo cùng 
Ngực anh màu nắng đượm 
Đẹp hồng như đất nung. 

Bình đẹp nghìn xưa cũ 
Tay ông cha giao về 
Đang sống lại tươi tắn 
Trong bàn tay vuốt ve.... 

Bình cao dáng trẻ thon 
Lọ nhớn thân đẫy tròn 
Đẹp phúc đầy của mẹ 
Đẹp duyên hiền của con. 

Xoay xoay bàn gỗ ơi, 
Nước mát nhào đất tơi 
Anh làm thêm cái đẹp 
Chưa có ở trong đời....

1962







.

No hay comentarios:

Publicar un comentario