viernes, 7 de agosto de 2015

NGUYỄN HỮU QUÝ [16.718] Poeta de Vietnam


NGUYỄN HỮU QUÝ

Poeta coronel Nguyễn Hữu Quý nació en 1956 en Quang Binh, Vietnam. Había trabajado en el Ejército Regimiento 559 y CTS (1974 a 1996). Actualmente, el poeta está escribiendo como personal del Ejército en la revista Artes bajo el Departamento Político General.




Presentamos poemas escritos sobre el coronel Truong Son, del poeta Nguyễn Hữu Quý


Anhelos de montaña en Truong Son

Yacen una junto a otra
Las tumbas son similares
Diez mil tazones para el incienso
Diez mil estrellas calcinadas
Diez mil campanas repiqueteando en silencio
Diez mil corazones anclados en la cabecera del río
Diez mil hombros que una vez cargaron a Truong Son
Diez mil pares de manos para abrir el bosque, dividir la montaña
Diez mil pares de pies irguiéndose sobre puntos fuertes
Diez mil pares de ojos que miraron hacia arriba para ver las nubes
de la tarde
Diez mil lámparas encendidas en la región de las tormentas
Diez mil fuegos de cocina caliente en medio de la selva verde
Diez mil lluvias diez mil estallidos de luz solar
Diez mil fiebres que hacen palidecer el antiguo bosque
Diez mil palos de veinte años
Diez mil arrugas aparecidas prematuramente
Diez mil dolores – diez mil círculos blancos
Diez mil cabezas, su cabello cayendo poco a poco
Diez mil montañas de Truong Son en un solo Truong Son
Diez mil canciones en una gran canción
Diez mil nombres madres llaman cada noche
Diez mil barcos anhelando el puerto
Diez mil retoños que no han visto el limo...
Diez mil lápidas, diez mil más,
Diez mil soldados compañeros distribuidos a través de Truong Son
Diez mil esqueletos sin humo o incienso
Diez mil soledades yaciendo en el reino desierto
Diez mil aislamientos errando por el bosque...
Diez mil anhelos de estar juntos.


Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena
http://www.festivaldepoesiademedellin.org/





KHÁT VỌNG TRƯỜNG SƠN *

Nằm kề nhau
Những nấm mộ giống nhau
Mười nghìn bát hương
Mười nghìn ngôi sao cháy
Mười nghìn tiếng chuông ngân trong im lặng
Mười nghìn trái tim neo ở đầu nguồn
Mười nghìn đôi vai từng gánh Trường Sơn
Mười nghìn đôi tay mở rừng xé núi
Mười nghìn đôi chân bám trên trọng điểm
Mười nghìn đôi mắt ngước hái mây chiều...
Mười nghìn ngọn đèn thắp miền giông bão
Mười nghìn bếp ấm giữa lòng rừng xanh
Mười nghìn cơn mưa, mười nghìn cơn nắng
Mười nghìn trận sốt bạc rừng nguyên sinh
Mười nghìn chiếc gậy của thời đôi mươi
Mười nghìn nếp nhăn hằn lên trước tuổi
Mười nghìn vết đau, mười nghìn vòng trắng
Mười nghìn mái tóc bị phát quang dần...

Mười nghìn Trường Sơn trong một Trường Sơn
Mười nghìn lời ca trong Bài ca lớn
Mười nghìn cái tên đêm đêm mẹ nhắc
Mười nghìn giấc mơ của mẹ chờ ta
Mười nghìn con đò thương về bến đợi
Mười nghìn hạt giống chưa về phù sa...

Mười nghìn tấm bia, còn mười nghìn nữa
Mười nghìn đồng đội nằm rải Trường Sơn
Mười nghìn hài cốt chưa về khói hương
Mười nghìn đơn côi nằm trong cõi vắng
Mười nghìn cô quạnh lang thang nẻo rừng...

Mười nghìn khát vọng được về bên nhau !

 -----------                 
*Giải Nhì (không có Nhất) cuộc thi thơ Văn nghệ quân đội năm 1996.
Nhạc sỹ Phạm Tuyên, Văn Chừng, Võ Thế Hùng đã phổ nhạc “Khát vọng Trường Sơn” thành 3 bài hát.




CƠN MƯA RỪNG CHIỀU NAY*

Mấy mươi năm lặng lẽ dưới rừng sâu
chúng tôi đến đưa anh về với mẹ
tây Trường Sơn chiều nay mưa tầm tã
thác trời tuôn, nghiêng ngã gió bốn bề.

Tấm ni – lông dành che hài cốt
chúng tôi như cây đẫm buốt mưa rừng
tay đồng đội nâng niu đồng đội
cơn mưa rừng trào khóe mắt rưng rưng!

Dưới cơn mưa là nén hương cháy dở
chút hương quê chưa thơm hết lòng mình
đỉnh non cao òa cơn sóng vỡ
nhịp tim dồn thao thức phía bình minh.

Hóa thành đất cái gia tài của lính
vóc dáng mẹ cho cũng đã đất rồi
thành đất cả dòng tên cha gọi
đất khai sinh ngọn lửa dưới mưa trời!

Ngày mai anh về với mẹ
gửi lại cơn mưa thao thiết cho rừng
nắm đất Trường Sơn bọc trong vuông vải nhỏ
như lửa đầu nguồn thắm mạch đất quê hương.
------------ 
*Giải Nhì (không có Nhất) cuộc thi thơ tạp chí Cửa Việt năm 1997.





NẤM MỘ HAI BIA (*) 

Người Quảng Trị - người Thái Bình
dưới ba tấc đất cốt hình của ai?

Vô danh ba chục năm dài
giờ chung một mộ khắc hai tên người.

Đúng? Sai? Cỏ chẳng trả lời
hỏi thông, thông đứng dưới trời vi vu

Đành lòng mượn khói mùa thu
một người ngả nón ngồi ru hai người…
-------------- 
*Nghĩa trang LSQG Trường Sơn có 68 ngôi mộ vô danh. Năm 2000 khi tôi đến đó thấy có 12 ngôi mộ đã được thân nhân các liệt sĩ gắn bia, trong đó có mộ gắn 2 bia.






VE KÊU Ở NGHĨA TRANG TRƯỜNG SƠN

Kêu sớm, kêu chiều, kêu cả hoàng hôn
kêu bồ đề xanh, kêu tượng đài trắng
kêu buốt lá kim trên cây mọc thẳng
tiếng kêu nhức nhức Trường Sơn

Ve kêu mất-còn
tiếng kèn chiêu tập
ve kêu mỏi mòn
nhắc thời màu ứa
về chưa…về chưa…?

Về chưa…về chưa…?
cũng đành nhắc lại
với mồ không tên và mộ có tên!

Về chưa…về chưa…?
cũng đành nhắc mãi
gọi hồn rừng sâu thăm thẳm lạnh lùng!

Nén hương cháy lên thành đuốc bùng bùng
ve kêu như lửa trùng trùng ngọn sông…



TRƯỜNG SƠN  TÓC DÀI

Đã nằm yên trong núi
những vầng ngực thơm hoa dẻ dịu dàng
sau ánh sáng
những đôi mắt khép lại
có một Binh đoàn con gái ra đi.

Chỉ còn lại dòng tên trên đá
tắm nắng mưa dầu dãi đầu nguồn
sau cuộc chiến họ là người về muộn
trễ hội pháo hoa, lỡ bữa tiệc mừng.

Thời con gái là thời cầm súng
thời phá bom, xẻ núi, bắc cầu
có một Trường Sơn tóc dài nương náu
trong miền trời trùng điệp mây bay.

Bạn ở đây
em cũng ở đây
ngã xuống đất tóc còn tươi như suối
có một đoàn quân tóc dài không tuổi
gội hương rừng ngan ngát mái Trường Sơn…









No hay comentarios:

Publicar un comentario