lunes, 10 de agosto de 2015

GIANG NAM [16.759] Poeta de Vietnam


GIANG NAM 

(Nacido el 2 de febrero de 1929) es un poeta de Vietnam, más conocido como el autor del poema Procedencia.

Jiang nan cuyo verdadero nombre es Nguyen Sung, nativo comuna Ninh Binh, distrito de Ninh Hoa, provincia de Khanh Hoa. Nació en una familia de eruditos.

Después de 1954 estuvo activo en el Sur, como Comité de Propaganda adjunto de Khanh Hoa, Secretario General Adjunto de la Asociación de las Artes de Liberación del Sur, los miembros del subcomité de entretenimiento Oficina Central, los jefes de sucursales.

Desde 1975, se desempeñó como diputado a la Asamblea Nacional Clave VI, miembro del Comité Ejecutivo de la Asociación de Escritores de Vietnam bloqueo II, III. The Arts Newspaper Editor Jefe, Presidente de The Arts Phu Khanh y Vicepresidente del Comité Popular de la provincia de Khanh Hoa .

Actualmente está retirado y vive en Nha Trang, provincia de Khanh Hoa.

Además de escribir poesía Jiang nan también escribe en prosa sobre todo cómico, cuentos cortos. El seudónimo: Jiang nan, Chau Giang, Ha Trung, Le Minh (utilizado en los periódicos publicados abiertamente en el Sur de 1955 a 1960 )

OBRA:

Thơ - Poesía

Tháng Tám ngày mai (1962)
Quê hương (1962)
Người anh hùng Đồng Tháp (1969)
Vầng sáng phía chân trời (1978)
Hạnh phúc từ nay (1978)
Thành phố chưa dừng chân (1985)
Ánh chớp đêm giao thừa (trường ca-1998)
Lá thư thành phố

Truyện - Cuento

Vở kịch cô giáo (1962)
Người giồng tre (1969)
Trên tuyến lửa (1984)
Rút từ sổ tay chiến tranh (truyện ngắn và ký-1987)




Aldea natal

De niño iba yo a la escuela dos veces al día.
De las páginas de mi libro escolar
Aprendí a amar a mi aldea natal:
“¿Quién dice que ocuparse del búfalo de agua es una vida dura?”

Escuchaba el canto de los pájaros desde los árboles,
como en un sueño.
Algunos días jugaba a ser el holgazán de la escuela,
Atrapando mariposas en el estanque
Hasta que mi madre me sorprendía.
Aunque ella no usaba látigo, yo lloraba.
La niña de al lado
Me miraba riéndose y yo me avergonzaba.
Tras la revolución,
La larga guerra comenzó
Y mi aldea natal se llenó
De sombras del enemigo.
Abandonando a mi madre, me fui.
¿Quién podría creer que la niña de al lado
Se unió también a la guerrilla?
El día en que nos conocimos ella rió de nuevo,

Sus hermosos ojos anchos y negros.
Mientras avanzábamos a la batalla, yo no podía pronunciar palabra.
Mientras mi unidad pasó, volví la cabeza.
El cielo estaba lleno de lluvia, pero mi corazón estaba cálido.

En paz regresé
A la vieja escuela, los campos arados, y la caña de azúcar.
De nuevo nos encontramos.
Avergonzada, se escondió tras una puerta...
Cuando le susurré: “¿Eres casada?”
Ella rió. “No sé qué decir”, dijo.
En duelo, sostuve su pequeña mano en la mía;
Su mano permaneció en mi mano ardiente.
Hoy escuché noticias sobre ella
Que no puedo creer aunque sepa que es verdad.
Porque era partisana
La mataron a tiros y arrojaron su cuerpo.
Sintiéndome medio muerto, mi corazón es sólo dolor.
De joven amé a mi aldea natal,
Sus pájaros y mariposas,
Todos mis días holgazanes de la escuela.
Amo a mi aldea natal, cada terrón de tierra
Donde yacen la carne y la sangre de mi hermana.

1960


Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena




Quê Hương


Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
“Ai bảo chăn trâu là khổ?”
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích…
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên (có ai ngờ)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương quá đi thôi)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi…
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bày tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi!
Đau xé lòng tôi, chết nửa con người…
Xưa quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học vị đòn, roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
 














No hay comentarios:

Publicar un comentario