lunes, 10 de agosto de 2015

HUỲNH VĂN NGHỆ [16.737] Poeta de Vietnam


HUỲNH VĂN NGHỆ 

(2/2/1914 - 5/3/1977)
Nació el 02 de febrero de 1914, en la provincia de Bien Hoa (ahora en Thuong Tan, distrito de Tan Uyen, provincia de Binh Duong, Vietnam), en una familia pobre.

En 1953, fue enviado al norte para estudiar y seguir trabajando en el Ejército de Teniente Coronel, Jefe de Deportes, Director Adjunto de Instrucción Militar del Estado Mayor General del Ejército Popular de Vietnam.

Dejando el ejército, Huỳnh Văn Nghệ ejerció de Adjunto al Departamento del Director General de Bosques.

En 1965 participó en el sur antiestadounidense, uniéndose a trabajar en la Oficina Central de Vietnam del Sur, manteniendo la posición de Jefe Based, Vicepresidente y Jefe árbitro Negocio Forestal.

Después de la reunificación, fue Viceministro de Bosques (más tarde se fusionó con el Ministerio de Agricultura y Desarrollo Rural).

Cayó enfermo y murió en Ho Chi Minh City en fecha 05 de marzo 1977.

Es un activista revolucionario y un comandante militar de Vietnam, famoso por su poesía. El estado de Vietnam le otorgó póstumamente el título de Héroe de las Fuerzas Armadas del Pueblo, por su contribución en el periodo contra los franceses y el Premio Estatal de las artes.




Extrañando el norte

Si vas al norte, déjame ir contigo
A ver de nuevo la tierra de Lac Hong.
Desde los días cuando la tierra era abierta con una espada,
El cielo del sur extraña la capital, Thang Long.

¿A quién recuerdas tú? Oh, Nguyen Hoang,
Somos tu prole de muchas generaciones.
En nuestra sangre nosotros escuchamos el alma del vagabundo
La tierra de los dragones ricos, con cariño.

Aún escuchamos los cantos de quan ho
Mezclados con los versos de una triste ópera del sur.
Aún extrañamos, aún recordamos las estaciones de lichis rojos.
Siempre débiles, los recuerdos de la fragancia de los durianes.

No podemos olvidar la misión de mil años,
Impulsados por la marcha del sur, lejos de casa,
Sabemos que nuestra capital está a diez mil millas de distancia
Y anhelamos volver a la aldea, soñando con la tierra feliz.

Si vas al norte, déjame hacerte algunas preguntas
Acerca de las antiguas almas, los héroes de Co Loa.
Tortuga Sagrada en el lago de la hierba reverdecida,
¿Cuándo le devolverás la espada a nuestro pueblo?


Quang Ho: forma de canción popular originada en Bac Ninh, Vietnam del
Norte, en la cual “liền anh”, “hombres” responden cantando de un lado a
otro con “liền chị” o melodías tradicionales femeninas o recién creadas. 

Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena




Bà Bán Cau

Còn đi đâu, đi mãi hỡi ai?
Mặc gánh nặng oằn, hai vai chịu,
Dưới trời mưa lửa chỉ chau mày.

Mẹ ơi! Cảnh ấy dẫu trăm năm,
Ngàn năm, hay muôn vạn ngàn năm
Một phút sau này con còn sống
Cảnh kia còn đốt mãi lòng con.

Con đường xe cong uống trên đồng khô,
Xóm làng xa, nắng chang, lim dim ngủ,
Trời cao, cao vút điểm mây khô,
Từ giữa trời xanh: nguồn nắng đổ.

Trên đường cát xa thăm thảm ấy,
Bà bán cau, gánh nặng trên vai oằn,
Lẹ làng đi, dưới chân cát cháy
Nón, dù đâu? Nắng đốt chiếc khăn rằn.

Gió bốc khói tung lên cuồn bụi trắng,
Xóm mờ xa khuất dạng sau rừng tre.
Mồ hôi chảy vòng quanh đôi má rám
Bà bán cau bước mãi dưới trưa hè.

Động lòng, bóng cây thầm nhắc nhủ.
“Bà má ơi! Ghé gánh nghỉ chân già!”
Nhưng không nghe, bà cứ đi, đi mãi,
Nhớ chiều nay, trước ngõ, đám con chờ.

Tân Uyên 1935



Bà Mẹ Việt Nam

Bốn ngàn năm tranh sống với thời gian
Máu anh hùng tô non sông cẩm tú
Mồ hôi dân kết đọng ngọn lúa vàng

Mẹ Việt Nam tuổi bốn mươi thế kỷ
Gót Cà Mau đầu tận ải Nam Quan 
Cửu Long Giang, buông dài làn sóng tóc
Dựa Trường Sơn, đứng gác Thái Bình Dương.

Ngàn thuở trước làm dâu nhà Hồng Lạc
Một giòng con hăm lăm triệu Tiên Rồng
Con trung hiếu, trai khôn và gái đẹp
Cùng mẹ hiền lo xây dựng non sông

Có biển rộng, sông dài, rừng núi đẹp 
Đồng phì nhiêu, lúa mía ngập mênh mang
Và âm thầm bao nhiêu vàng, than thép
Dưới mỏ sâu chờ đợi bước vinh quang.

Giặc cướp nước đánh hơi từ bốn phía
Kéo về đây thực hiện mộng tham tàn
Tên núi sông trờ thành tên chiến địa
Chống xâm lăng thành truyền thống nhân dân.

Gặp thời loạn, mẹ phất cờ khởi nghĩa
Bầy con ngoan đứng dậy diệt quân thù. 
Lũ cướp nước đã bao phen khiếp vía
Trở về quê không rửa kịp máu đầu.

Nay giặc Pháp lại mang đầu trở lại. 
Dù tầm vông phải chọi với xe tăng
Mẹ vững tin nơi bầy con trung hiếu
Ngày mai đây diệt chúng cứu giang sơn.

Rồi Việt Nam của rừng vàng biển bạc
Của bình yên sáng lạng tiếng chim quyên
Sẽ nguyên vẹn, mẹ nghe chăng khúc hát
Khải hoàn ca từng nhịp đã vang lên.

Chiến khu Đ, cuối 1946




Bên Bờ Sông Xanh

Kiếm gối đầu theo gió thổi hồn cao
Thơ tôi đây cũng hoa bướm muôn màu
Lòng tôi đây ,cũng vui sầu như bạn
Tôi cũng biết nhớ thương tơ tưởng
Nào chỉ là võ tướng hay thi nhân
Tôi là người lăn lóc trên đường trần 
kông phân biệt lúc mài gươm múa bút
Đời chiến sỹ máu hoà lệ mực
Còn yêu thương là chiến đấu không thôi
Suốt một đời gươm chẳng ráo mồ hôi
Thì không lẽ bút phải chờ kiếp khác
Trên lưng ngựa múa gươm vừa ca hát 
Lòng ta say chiến trận đã thành thơ
Máu quân thù chảy đỏ quê hương yta
Còn vần thơ nào hay hơn nữa
Bạn dừng ngại vì người thơ mê ngủ 
Quên cuộc đời,tìm mộng để làm thơ
Bạn đừng lo tôi say máu quân thù
Quên ghi chép những vần thơ huyền diệu
có chiến đấu thơ mới thêm vần điệu
Càng hát ca gươm càng sắc bén thêm
Nợ kiếm cung nghiên bút biết sao đền
Nếu không biết vừa làm thơ,giết giặc
gửi lại bạn những vần thơ trên cát
Và giờ đây tôi qua bến ,lên đường

15/10/1948










No hay comentarios:

Publicar un comentario