lunes, 10 de agosto de 2015

THÂM TÂM [16.740] Poeta de Vietnam


THÂM TÂM 

Su verdadero nombre es Nguyen Tuan Trinh, nacido el 12 de mayo de 1917 en la ciudad de Hai Duong (ahora ciudad de Hai Duong ), provincia de Hai Duong, Vietnam. Murió de una enfermedad repentina el 18 de agosto de 1950.
Le fue concedido a título póstumo el Premio Estatal de Literatura y Arte en 2007.

OBRA:

Poesía:

Tống biệt hành
Ngậm ngùi cố sự
Chào Hương Sơn
Ly biệt
Vạn lý Trường thành (thơ in trên các báo trước 1945)
Chiều mưa đường số 5 (1948)
Thơ Thâm Tâm (1988)

Drama:

Sương tháng Tám (kịch một hồi, Tiểu thuyết thứ bảy, 1939)
Nga Thiên Hương
19-8
Lối sống (1945)
Lá cờ máu
Người thợ (1946)




Lluvia de atardecer en la Ruta 5

La tarde lluviosa empapó
Este blanco campo de malezas.
En la tierra ocupada, el río estaba quieto.
Muchos soldados hacinados
Bajo techos de paja
Oían el viento frío soplar silenciosamente.
Tarde lluviosa en la Ruta 5.
Todos los ojos absortos en la distancia,
Interiorizando el cielo entero,
Las pesadas nubes de nuestra lejana
Base en Viet Bac,
Las montañas y bosques encantadores
Cuando padecíamos el frío y la lluvia.
Por dos años los sufrimos.
En la tarde de lluvia mil
Flores Mai brotaron, sus pétalos
Traían el color de la primavera.
Alguien encendió el fuego en la estufa,
La fragancia del té como el amor de los aldeanos,
Aliento de lluvia a través de las ventanas.
El día que los soldados se fueron
La anciana madre se quedó en silencio,
Sus ojos húmedos de lágrimas.
Oh, ¿dónde está el pueblo de las montañas?
¿Dónde está la guerrilla
Con ropas raídas bajo la lluvia?
Rifles al hombro, escalaron
El paso, penetrando líneas enemigas.
¿Dónde estábamos tú y yo
Cuando reíamos a carcajadas, esperando
A los soldados después de la emboscada?
Bajo la lluvia, los trilladores de arroz se apresuran,
Los morteros golpean, golpean,
Thunk, Thunk, al unísono.
Oh altas montañas, bosques profundos,
¿Dónde está mi viejo pelotón?
¿Sabes que la lluvia se apresura
Aquí donde esta delgada manta fría
Me recuerda la primera frialdad?
Entonces siento el amor
Del pueblo de Viet Bac.

Ruta 5 es el camino de Hanoi a Hai Phong. Durante la ocupación francesa,
estuvo bajo constante ataque de la Resistencia. Viet Bac, o Vietnam del
Norte, fue la base principal de la Resistencia.


Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena




Tống biệt hành

Ðưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hòang hôn trong mắt trong?
Ðưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng...

Ly khách! ly khách! con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.

Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở tốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.

Ta biết người buồn sáng hôm nay
Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay.
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...

NGƯỜI ĐI? Ừ NHỈ, NGƯỜI ĐI THỰC!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay.





Đây cảnh cũ, đâu người xưa

Đây cảnh cũ, đâu người xưa 
Tình cũ năm qua để hững hờ 
Hoa dẫu mỉm cười nhưng có ý 
Phảng buồn mặt phấn nét tương tư 
Giận thời gian, tiếc ngây thơ 
Lòng xuân tình cảm bây giờ gửi ai? 
Trinh xuân mộng cũ đi rồi 
Cảnh sinh xa vắng ngậm ngùi ly tao 
Gặp Trinh trong bóng xuân đào 
Đang khi quãng gió dạt dào chim ca 
Má hồng, hồng đượm hương hoa 
Rung rinh đọng giọt phấn nhoà sương rơi 
Hoa xuân thắm, nụ xuân tươi 
Quyện hoa hơn hớn, lòng ơi mộng lòng 
Trinh tay nâng giấc cánh hồng 
Với vần thơ hái mơ mòng tôi yêu... 
Cảm nhau từ đấy xuân chiều 
Cành thơ, lá gió dập dìu ngân nga 
Tìm Trinh trong nắng tôi ra 
Lời oanh ríu rít vuốt hoa Trinh cười 
Nhưng đây nắng liễu buồn ơi! 
Ba xuân nẩy nét chia phôi chim ngừng....

(1941) 






Bán hoa đào

Vang bóng thanh bình phố đỏ trưng 
Mươi lăm thầy khoá viết khom lưng 
Dăm nàng gái nõn ngon như mứt 
Đi sánh hoa đào vẻ má nhung 

Có một thân tang mang trắng phơ 
Ngang đầu màu tóc lẫn màu tơ 
Lão buồn đi bán cành hương thắm 
Hoa đỏ...mừng vang, áo... bạc mờ! 

Ai cũng như ai bận tiếp xuân 
Mê man sắc tía ngả đầy tâm 
Riêng cô, lão bán muôn hồn đỏ 
Rồi lủi về đâu kiếp lệ thầm? 

Có những lòng trinh bán một giờ 
Vợ người cơ lỡ bán con thơ 
Cùng đường, trai bán thân cao trọng 
Có vạn linh hồn đã bán mua 

Như lão rao hoa có vạn tình 
Trĩu trời tang, nặng kiếp thương sinh 
Tháng ngày âm ỉ nguồn đau chảy 
Trong mắt u trầm ngọn lửa xanh! 

Nghiến răng đem bán hết đời xuân 
Có kẻ nên tang chẳng một lần 
Chảy dưới mắt đời, khi tất cả 
Máu đào tranh chảy đã muôn năm

1940 
Nguồn: Thơ Thâm Tâm, NXB Văn học, 1988.








.

No hay comentarios:

Publicar un comentario