sábado, 15 de agosto de 2015

NGUYỄN DUY [16.814] Poeta de Vietnam


NGUYỄN DUY 

Nguyễn Duy. Nombre real: Nguyễn Duy Nhuệ, nació el 12/07/1948 en Dong Ve comuna, distrito de Dong Son, Thanh Hoa, Vietnam. 

En 1966 se alistó en el ejército, se convirtió en soldado de las líneas del ejército de información. Nguyễn Duy siempre comprometido en combate en los campos de batalla de Khe Sanh, Ruta 9 - el sur de Laos, y más tarde en el frente sur, el Frente del Norte (1979). 

Trabajó en The Arts semanal, la Asociación de Escritores de Vietnam y fue representante de este periódico en el Sur. 

Nguyễn Duy, comenzó a escribir poesía muy pronto. Su primer trabajo fue el poema "En el patio," escrito a principios de los 60, cuando era estudiante de secundaria en Lam Son, Thanh Hoa. Pero no fue hasta 1973, que fue realmente famoso por el primer premio del concurso poemas poesía Arts Magazine.

Fue galardonado con el Premio Estatal de Literatura 2007. 

OBRAS: 

- Cát trắng (thơ, Nxb Quân đội, 1973) 
- Phóng sự 30475 (thơ, Nxb Văn nghệ, 1981) 
- Em sóng (kịch thơ, Nxb Kim Đồng, 1983) 
- Ánh trăng (thơ, Nxb Tác phẩm mới, 1984) 
- Khoảng cách (tiểu thuyết, Nxb Phụ nữ, 1985) 
- Nhìn ra bể rộng trời cao (bút ký, Nxb Văn nghệ, 1986) 
- Mẹ và Em (thơ, Nxb Thanh Hoá, 1987) 
- Đãi cát tìm vàng (thơ, Nxb Văn nghệ, 1987) 
- Tôi thích làm vua (ký, Nxb Văn nghệ, 1988) 
- Đường xa (thơ, Nxb Trẻ, 1989) 
- Quà tặng (thơ, Nxb Văn học, 1990) 
- Về (thơ, Nxb Hội nhà văn, 1994) 
- Sáu & Tám (thơ, Nxb Văn học, 1994) 
- Tình tang (Nxb Văn học, 1995) 
- Vợ ơi (thơ, Nxb Phụ nữ, 1995) 
- Bụi (thơ, Nxb Hội nhà văn, 199



Đò Lèn *

De niño, pasaba yo mis días pescando en el arroyo de Na,
o agarrado de la falda de mi abuela en el mercado de Binh Lam,
o atrapando gorriones en los oídos del gran Buda,
o robando ojos de dragón en la pagoda de Tran.

De noche jugaba descalzo en el Santuario de Cay Thi,
me unía a la multitud en el festival del templo Song;
lirios blancos olían más dulcemente con el humo de incienso,
el médium se tambaleaba al ritmo de antiguas canciones.

No pensaba entonces en su vida dura: cómo mi abuela
recogía gambas y escarbaba buscando cangrejos en el campo de Quan,
cómo se tambaleaba con aquellas cestas de habas verdes sobre su hombro
yendo a Ba Trai, Quan Chao, Dong Giao, en frías noches heladas.

Yo vivía entre las orillas de la verdad y la mentira,
entre mi abuela y los ángeles, Buda y los dioses.
Recordé el primer año del hambre y el dong medio cocido;
¿Aspiraba entonces la fragancia del incienso y los lirios blancos?

Pero pronto las bombas empezaron a caer. La casa de mi abuela
fue arrasada,
El templo Song arrasado, la pagoda arrasada,
dioses y budas se fueron juntos;
mi abuela vendía huevos en la estación de tren de Len.

Me uní al ejército…, viajé lejos de mi pueblo por muchos años,
antiguo río con una orilla derruida y otra construida.
Descubrí muy tarde el amor por mi abuela
un montículo pastoso era todo lo que quedaba.

Aldea de la Madre, 9/1983
*Đò Lèn* Embarcadero de Lèn

Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena



Đò Lèn

Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá 
níu váy bà đi chợ Bình Lâm 
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật 
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần 

Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị 
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng 
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm 
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng 

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế 
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan 
bà đi gánh chè xanh Ba Trại 
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn 

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực 
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần 
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng 
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm 

Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất 
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền 
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết 
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn 

Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại 
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi 
khi tôi biết thương bà thì đã muộn 
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!

9-1983 
Nguồn: Nguyễn Duy, Ánh trăng, Nxb Tác phẩm mới, 1984





Tre Việt Nam

Tre xanh 
Xanh tự bao giờ? 
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh 

Thân gầy guộc, lá mong manh 
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi? 
Ở đâu tre cũng xanh tươi 
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu 

Có gì đâu, có gì đâu 
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hoá nhiều 
Rễ siêng không ngại đất nghèo 
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù 
Vươn mình trong gió tre đu 
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành 
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh 
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm 

Bão bùng thân bọc lấy thân 
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm 
Thương nhau tre không ở riêng 
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người 
Chẳng may thân gãy cành rơi 
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng 
Nòi tre đâu chịu mọc cong 
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường 
Lưng trần phơi nắng phơi sương 
Có manh áo cộc tre nhường cho con 

Măng non là búp măng non 
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre 
Năm qua đi, tháng qua đi 
Tre già măng mọc có gì lạ đâu 

Mai sau, 
Mai sau, 
Mai sau... 
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh

1970-1972 
Nguồn: Nguyễn Duy, Cát trắng, Nxb Quân đội nhân dân, 1973




Hơi ấm ổ rơm

Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm 
Bà mẹ đón tôi trong gió đêm 
- Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ 
Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ 
Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm 

Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm 
Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng 
Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm 
Của những cọng rơm xơ xác gầy gò 

Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no 
Riêng cái ấm nồng nàn như lửa 
Cái mộc mạc lên hương của lúa 
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người

Bình Lục - một đêm lỡ đường 

Nguồn: Nguyễn Duy, Cát trắng, Nxb Quân đội nhân dân, 1973






Dịu và nhẹ

Nhàm tai nghe rối tiếng ầm 
dọn tai ta lắng tiếng thầm thế gian 

Mùa xuân trở dạ dịu dàng 
hoa khe khẽ hé nhẹ nhàng hương bay 

Nhẹ nhàng lộc cựa nách cây 
dịu dàng vương dải tím mây ngang chiều 

Nhẹ nhàng tiếng bóng xiêu xiêu 
em ngồi chải tóc muối tiêu dịu dàng 

Má hồng về xứ hồng hoang 
tóc rơi mỗi sợi nghe ngàn lau rơi 

Dịu dàng vang tiếng mắt cười 
bỏ qua sấm chớp một thời xa xăm 

Bỏ qua tội tháng nợ năm 
tự nhiên giọt nước mắt lăn nhẹ nhàng...

(Cuối năm con Ngựa 1990) 
Nguồn: Nguyễn Duy, Về, NXB Hội nhà văn, 1994









No hay comentarios:

Publicar un comentario