lunes, 10 de agosto de 2015

HỮU LOAN [16.738] Poeta de Vietnam


HỮU LOAN

(02 de abril de 1916 - 18 de marzo de 2010) fue un poeta de Vietnam, coetáneo del poeta Xuan Dieu, nació en la comuna del Distrito Nga Hijo, provincia de Thanh Hoa.

Obras:

Cũng những thằng nịnh hót
Đèo Cả
Đêm
Màu tím hoa sim
Hoa lúa
Ngày mai
Thánh mẫu hài đồng
Tình Thủ đô
Yên mô




La púrpura flor de la lavanda

                  En memoria de mi esposa, Le Do Thi Ninh,
                  quien murió en Mau Ty en 5/29


Ella tenía tres hermanos en el ejército de la resistencia
Y algunos hermanos y hermanas menores aún en casa,
Entre ellas una bebé, su cabello una corriente de ébano, profunda,
brillante.

Un guardia nacional lejos de casa,
Yo la amaba como a una hermana. Ella no
Pidió un vestido nuevo para su luna de miel.
Yo lucí mi uniforme de guardia,
Botas sucias por el barro de la batalla,
Ella sonreía con suave sonrisa elegante
Junto al novio de extraño aspecto.

Después de la boda tuve que salir,
Regresar a mi unidad.
En la base de la montaña, me dolía el corazón por el anhelo.
Casados en tiempos de guerra, ¿cuántos hombres volvieron?
Y si fuera mi destino que no lo hiciera
Compadécete de la joven esposa que espera en vano en la aldea al
atardecer.
Pero la muerte no le llegó al hombre en el frente.
La muerte le llegó a la mujer que él había dejado.
Regresé a la aldea muy tarde para verla.
Me senté junto a la pequeña tumba, envuelta en oscuridad.
El florero de nuestra boda se había convertido en un recipiente de
incienso,
Cargado de cenizas frías,
Su colgante cabello negro
Aún no lo suficientemente largo como para atarse en trenzas.
En los últimos minutos de su vida
No pudimos hablar
Ni pudimos vernos por última vez.

En aquellos tempranos días cuando nos conocimos, siempre amaste
la púrpura flor de la lavanda,
Tu camisa era la púrpura flor de la lavanda.
En aquellos primeros días, te inclinabas bajo la lámpara a altas horas
de la noche,
Doblando tu delgada figura para remendar la camisa del esposo.

Una tarde, en lo profundo de la selva tropical,
Tres hermanos en el frente noreste
Oyeron noticias de la muerte de su hermana
Antes que escucharan la noticia de su boda.

Los vientos del otoño llegaron temprano, perturbando la faz del río.
Una joven hermana creció
Mirando curiosa la fotografía del rostro de una hermana mayor.
Cuando el temprano viento del otoño llega,
Los pastos amarillentos trepan sobre los montículos de la tierra.

En las tardes, de marcha,
Cruzaré los campos de la púrpura flor de la lavanda.
Colinas de flores púrpuras
Se extienden y se extienden 
En una tarde que parece sin fin.
Sus velos de lavanda, el anochecer de una oscuridad
inconmensurable.

Sintiendo mi camisa, tarareo en voz baja entre púrpuras flores de
lavanda:
“La costura de mi camisa se rompió.
Mi madre está lejos, y mi esposa ya no está”.

Nghe An, 1949



Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena





Màu Tím Hoa Sim

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng 
có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn 
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giầy đinh 
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa 
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê ...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về 
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh 
Tóc nàng xanh xanh 
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối 
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần         
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa 
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa ... Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng.
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
khi gió thu về
cỏ vàng chân mộ chí.
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim 
Những đồi hoa sim 
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa.
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm mẹ già chưa khâu ... 
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu ...

(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)






Bắt đầu là bài Đèo Cả 

Đèo cả ! Đèo Cả
Núi cao ngút
Mây trời  Ai Lao
Sầu đại dương
Dặm về heo hút
Đá Bia mù sương
Bên quán « Hồng Quân » người ngựa mỏi
Nhìn dốc ngồi than,
Thương ai lên đường !
Chầy ngày lạc giữa núi
Sau chân lối vàng xanh tuôn
Dưới cây bên suối độc
Cheo leo chòi biên cương
(…) Rau khe, cơm vắt
Áo phai màu sa trường
Ngày thâu vượn hú
Đêm canh gặp hùm lang thang






Cùng một mạch thơ, khoảng cuối 1950, đầu 1951, Hữu Loan có bài Tình Thủ đô được bè bạn ghi theo trí nhớ, và tác giả đã duyệt lại :


Trên những chuyến xe bò
đi về đường Trèm Vẽ
Việt Bắc âm u
Đường dài Thanh Nghệ
Người Thủ đô tản cư
Đoàn xe bò
Chở nặng tâm tư
Một góc nhà
Một hè phố
Mắt em biếc
Một chiều xưa
(…) Những người bắt sống Le Page
                                               và Charton
Những chiến sĩ Cao Bằng - Đông Khê
Những binh đoàn biên giới
Đang chuyển về Trung Du
Như đi từng dãy núi
Kẹp vòng quanh ngoại vi Thủ đô.













No hay comentarios:

Publicar un comentario