lunes, 10 de agosto de 2015

NGUYỄN ĐÌNH THI [16.746] Poeta de Vietnam


NGUYỄN ĐÌNH THI

(1924 - 2003) es un escritor, poeta y músico de Vietnam.

Nació el 20 de diciembre de 1924 en Luang Prabang (Laos). Sin embargo, en su natal pueblo de Vu Thach, ahora Ba Trieu ubicado en Trang Tien, distrito de Hoan Kiem, Hanoi. Su padre era un inspector postal en Indochina.

En la década de 1940 se incorporó a la Organización Nacional de Cultura de Salvación. En 1945 asistió a la Conferencia Nacional de Tan Trao y luego fue elegido diputado  en Vietnam. Después de la Revolución de Agosto, Nguyẽ̂n Đình Thi fue nombrado Secretario General de Salvación Nacional de Cultura.

Perteneció a la generación de artistas que se crió en la guerra contra Francia. Escribió tratados filosóficos, poemas, composiciones, dramas, crítica. Fue galardonado con el Premio Ho Chi Minh literatura y arte en 1996.

En 1954 participó en la gestión de literatura y arte. Desde el año 1958 hasta el año 1989 como Secretario General de la Asociación de Escritores de Vietnam. Desde 1995, es presidente del Comité Nacional de la Unión de la Literatura y de la Asociación de Arte.

Murió el 18 de abril de 2003 en Hanoi.

Obras 

Historias 

Xung kích (1951)
Bên bờ sông Lô (tập truyện ngắn, 1957)
Vào lửa (1966)
Mặt trận trên cao (1967)
Vỡ bờ (tập I năm 1962, tập II năm 1970)

Ensayo 

Mấy vấn đề văn học (1956)
Công việc của người viết tiểu thuyết (1964)

Poesía 

Người chiến sỹ (1958)
Bài thơ Hắc Hải (1958)
Dòng sông trong xanh (1974)
Tia nắng (1985)
Đất nước (1948 - 1955). (Đã được nhạc sỹ Đặng Hữu Phúc phổ thành bản Giao Hưởng - Hợp xướng cùng tên "Đất nước" Biểu diễn lần đầu tiên tại Nhà hát lớn Hà nội ngày 1 tháng 9/2009, Do chính Đặng Hữu Phúc chỉ huy Dàn nhạc - Hợp xướng Nhà hát Nhạc vũ kịch VN[1])

Drama 

Con nai đen
Hoa và Ngần
Giấc mơ
Rừng trúc
Nguyễn Trãi ở Đông Quan
Tiếng sóng

Música 

Người Hà Nội (1947)
Diệt phát xít


 
Obras publicadas

Historias

Shock ( 1951 )
Río Lot (cuentos, 1957 )
El fuego ( 1966 )
Frente el cielo ( 1967 )
Explosión (Volumen I, en 1962 , el conjunto II 1970 )
Ensayo

Algunas cuestiones de la literatura ( 1956 )
El trabajo de escribir una novela ( 1964 )

Poesía

Los guerreros ( 1958 )
Poemas del Mar Negro (1958)
En el Green River ( 1974 )
La luz del sol ( 1985 )
País (1948-1955).

Teatro

Ciervo Blanco
Hoa y Ngan
Sueño
Bosque de bambú
Quan Nguyen Trai en Dongguan
Ondas

Música

El Hanoi (1947)
Lucha contra el fascismo




Recordando

¿Quién recuerda la estrella cuando brilla
Para iluminar la ruta de los soldados sobre el paso de montaña?
¿A quién recuerda la llama cuando hace resplandecer la fría noche
Y calienta el corazón de los soldados bajo los árboles?

Te amo como amo a nuestro país,
En el dolor y la miseria y con gran pasión.
En cada paso que doy, estás en mis pensamientos,
En la comida que como, en cada noche que duermo.

La estrella nunca se atenúa.
Lucharemos nuestras vidas enteras por nuestro amor.
El fuego en el bosque titila su llama roja.
Nos amamos unos a otros, orgullosos de ser humanos.

1951

Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena



Đất nước

Sáng mát trong như sáng năm xưa 
Gió thổi mùa thu hương cốm mới 
Tôi nhớ những ngày thu đã xa 
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội 
Những phố dài xao xác hơi may 
Người ra đi đầu không ngoảnh lại 
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy. 

Mùa thu nay khác rồi 
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi 
Gió thổi rừng tre phấp phới 
Trời thu thay áo mới 
Trong biếc nói cười thiết tha! 
Trời xanh đây là của chúng ta 
Núi rừng đây là của chúng ta 
Những cánh đồng thơm mát 
Những ngả đường bát ngát 
Những dòng sông đỏ nặng phù sa 

Nước chúng ta 
Nước những người chưa bao giờ khuất 
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất 
Những buổi ngày xưa vọng nói về! 
Ôi những cánh đồng quê chảy máu 
Dây thép gai đâm nát trời chiều 
Những đêm dài hành quân nung nấu 
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. 
Từ những năm đau thương chiến đấu 
Ðã ngời lên nét mặt quê hương 
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu 
Ðã bật lên những tiếng căm hờn 

Bát cơm chan đầy nước mắt 
Bay còn giằng khỏi miệng ta 
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất 
Ðứa đè cổ, đứa lột da... 

Xiềng xích chúng bay không khoá được 
Trời đầy chim và đất đầy hoa 
Súng đạn chúng bay không bắn được 
Lòng dân ta yêu nước thương nhà! 

Khói nhà máy cuộn trong sương núi 
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng 
Ôm đất nước những người áo vải 
Ðã đứng lên thành những anh hùng. 

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội 
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh 
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới 
Lòng ta bát ngát ánh bình minh. 

Súng nổ rung trời giận dữ 
Người lên như nước vỡ bờ 
Nước Việt Nam từ máu lửa 
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.

1948 







Đi tìm cách mạng

Xung quanh làng xóm lầm than 
Thóc Tây, đay Nhật muôn vàn thảm thương
Đi phu, đi lính, đắp đường 
Người nghèo một cổ mấy tròng thắt ngang 
Mùa mùa lúa vẫn chín vàng 
Lúa đi đâu mất, ta làm cho ai? 
Địa chủ nó có trăm vòi 
Hút vào xương tuỷ, mồ hôi dân mình 
Tiếng đồn trên núi rừng xanh 
Có quân Cách mạng Việt Minh phất cờ 
Sao vàng soi lối tự do 
Dân nghèo theo hết vỡ bờ nổi lên 
Chiến khu ta ở Tây Nguyên 
Quân đang vượt núi xuống miền trung du 
Mặt trời đang xé sương mù 
Dân mình đang phá ngục tù nghìn năm 
Truyền đơn rải ở chợ làng 
Cờ đỏ mọc giữa đường quan ban ngày 
Đồng quê như có lửa bay 
Nhà giàu bàn tán, dân cày truyền tin 
Quyết lòng dấn bước đi tìm 
Một đêm nổi gió băng mình thoát thân








Buổi chiều ấy

Buổi chiều ấy mình như hai đứa trẻ 
Anh dắt tay em chạy giữa mưa 
Cùng vui quá và cùng run quá 
Đến nơi chưa từng biết bao giờ 

Như hai con chim trên mặt biển 
Bay giữa mênh mông sóng nước mờ 
Chỉ có mây trời và gió lớn 
Làm bạn cho ta bay mãi xa 

Tìm thấy nhau rồi không lạc nữa 
Anh dắt tay em chạy giữa mưa 
Quên những chông gai quên tất cả 
Để lại sau lưng mọi bến bờ

Nguồn: Sóng reo, NXB Hội nhà văn, 2001.





Chia tay trong đêm Hà Nội

Em đi với anh trong đêm Hà Nội 
Qua những phố hè quen thuộc yêu thương 
Dọc hàng cây ánh đèn pha cuốn bụi 
Từng đoàn xe cao xạ chạy rung đường 

Pháo đang bắn trời ngoại ô gió thổi 
Đạn đỏ loè xa trong ánh trăng 
Em đi bên canh tóc xoà bay rối 
Nhỏ nhắn vai em khoác súng trường 

Nhìn em anh hãy còn bỡ ngỡ 
Như sợ bất ngờ em biến đi đâu 
Pháo vẫn bắn chân mây đầy chớp lửa 
Anh lại nhìn em lòng xôn xao 

Trăng soi gương mặt nghìn yêu dấu 
Ngày mai hai đứa đã hai nơi 
Hai đầu đất nước trong dông bão 
Cùng chung chiến đấu hai phương trời 

Đêm nay trong vườn hoa ngổn ngang ụ súng 
Bên ven hồ lốm đốm trăng xanh 
Nghe quanh ta đêm hè nóng bỏng 
Mắt bồi hồi em đi bên anh 

Em đi với anh qua bến xe đông chật 
Bao gia đình vội vã lúc ra đi 
Em nhìn những mái nhà cao thấp 
Đã bao lần thấy những cuộc chia ly 

Kìa xa xa một cụm đèn lấp lánh 
Giữa trời đêm như đang vẫy đang chào 
Chiếc máy bay ta lượn vòng nghiêng cánh 
Bay qua vầng trăng điểm mấy ngôi sao 

Em nhìn bên dãy tường sập đổ 
Xưởng thợ lò than vẫn rực hồng 
Nhà máy vẫn rì rầm không ngủ 
Lập loè đèn hàn điện bên sông 

Em đi với anh trên đê cao vắng 
Một tiếng còi xe lửa huýt dài xa 
Gió đưa khúc nhạc em yêu văng vẳng 
"Mỗi tấc đất Hà Nội đượm thắm mãi lòng ta" 

Trên gác nhỏ đèn dầu ai vẫn thức 
Em vẫn đi và vẫn lắng yên 
Có tiếng ru đứa trẻ nào đang khóc 
Đêm đã khuya trong phố cũ êm đềm 

Anh nắm cánh tay em và đứng lại 
Ôi anh không còn biết đang ở đâu 
Nhớ nhau chân cứng đá mềm em nhé 
Hẹn đánh Mỹ xong sẽ về tìm nhau 

Chào Hà Nội của ta sáng đẹp 
Giữa đêm trăng trong biếc mênh mông 
Thành phố tình yêu thành phố thép 
Ta chào trái tim đất nước anh hùng 
Anh ôm chặt em và ôm cả khẩu súng trường bên vai em.










.

No hay comentarios:

Publicar un comentario